Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012
Trả lời câu hỏi_Các công cụ hỗ trợ giao tiếp
BÀI TẬP INTEL
Bài tập 2
Câu 1: Công cụ hỗ trợ giao tiếp nhóm lựa chọn:
1. Dropbox
2. Yahoo
3. Blog
Lí do lựa chọn:
STT
|
Công cụ hỗ trợ giao tiếp
|
Lí do lựa chọn
|
1
|
Dropbox
|
Nơi lưa trữ và chia sẻ tài liệu trực tuyến giữa các thành viên trong nhóm, tạo một không gian làm việc chung, xóa đi khoảng cách về không gian cũng như các khó khăn trong việc chia sẻ dữ liệu.
|
2
|
Yahoo
|
Nơi các thành viên trao đổi thảo luận, bàn bạc, rút ra ý kiến chung.
|
3
|
Blog
|
Nơi trình bày ý tưởng của nhóm với giáo viên và nhóm có nhu cầu, quan tâm tìm hiểu.
|
Câu 2: Cách sử dụng các công cụ hỗ trợ giao tiếp trong bài dạy:
STT
|
Công cụ hỗ trợ giao tiếp
|
Thời gian sử dụng
|
Mục đích sử dụng
|
Cách sử dụng
|
1
|
Dropbox
|
Xuyên suốt quá trình thực hiện dự án
|
Lưu trữ , chia sẻ tài nguyên
|
Tạo một tài khoản hay foder dùng chung trong nhóm
|
2
|
Yahoo
|
Xuyên suốt quá trình thực hiện dự án
|
Trao đổi thông tin
|
Mỗi thành là một nick yahoo, các thành viên có nhu cầu sẽ trao đổi trên yahoo
|
3
|
Blog
|
Kết thúc quá trình thực hiện dự án
|
Trình bày sản phẩm
|
Nhóm tạo một địa chỉ blog chung. Các ý tưởng, cũng như sản phẩm nhóm thực hiện sẽ được trình bày trên blog.
|
Trả lời câu hỏi_Đánh giá
Câu 1: Vì sao cần phương pháp đánh giá đa dạng?
Trả lời: Để hiểu rõ tại sao cần phải có phương pháp đánh giá đa dạng ta cần hiểu dược mục đích của đánh giá:
a. Phân loại hoặc tuyển chọn người học:
Đây có lẽ là mục đích phổ biến nhất của các hoạt động đánh giá học tập. Với mục đích này, thông qua đánh giá người học được phân loại về trình độ nhận thức, năng lực tư duy, hoặc kỹ năng. Sự phân loại này có thể nhằm phục vụ cho những mục đích khác nhau: xét lên lớp, khen thưởng, xét tuyển đối với bậc học cao hơn, xét tuyển dụng lao động…
b. Duy trì chuẩn chất lượng:
Đánh giá cịn nhằm mục đích xem xét một chương trình học hoặc một nhóm đối tượng người học có đạt được yêu cầu tối thiểu về mặt chất lượng đã được xác định hay không. Đánh giá theo mục đích này thường được tiến hành bởi các nhà quản lý giáo dục hoặc các cơ quan quản lý chất lượng giáo dục.
c. Động viên học tập:
Thực tiễn giáo dục cho thấy một khi hoạt động đánh giá được tổ chức đều đặn và thích hợp thì chất lượng học tập không ngừng được nâng cao. Đánh giá được xem như một chất xúc tác giúp cho “phản ứng học tập” được diễn ra thuận lợi hơn, hiệu quả hơn. Trong tâm lý học, cho điểm hay xếp loại học tập có thể được xếp vào loại hoạt động khích lệ. Hoạt động này đóng vai trò như là nhân tố thúc đẩy bên ngồi. Nếu nó được kết hợp cùng với lịng mong muốn, cả hai sẽ tạo ra động lực cho các hoạt động của con người. Tuy nhiên, nếu quá đề cao hoặc áp dụng thái quá các biện pháp khích lệ thì có thể dẫn đến kết quả làm cho người được khuyến khích điều chỉnh mục đích hoạt động của họ. Không ít người học hiện nay coi điểm số hay xếp hạng là mục tiêu quan trọng nhất của sự học. Đây chính là tác dụng ngược của hoạt động đánh giá học tập một khi nó không được thực hiện một cách đúng đắn.
d. Cung cấp thông tin phản hồi cho người học:
Kết quả đánh giá có thể cho phép người học thấy được năng lực của họ trong quá trình học tập. Muốn vậy, thông tin đánh giá cần đa dạng (chẳng hạn cho điểm kết hợp với nhận xét) và hoạt động đánh giá cần diễn ra tương đối thường xuyên. Ở nhiều trường hiện nay giáo viên phải dạy các lớp đông, từ đó dẫn đến họ không dám đánh giá thường xuyên vì không có thời gian chấm bài, mà có chấm thì đa số cũng chỉ cho điểm chứ hiếm khi cho nhận xét về ưu, nhược điểm của người làm bài.
e. Cung cấp thông tin phản hồi cho người dạy:
Thông qua đánh giá, giáo viên có thể biết được năng lực học tập hoặc khả năng tiếp thu về một vấn đề cụ thể của người học, biết được tính hiệu quả của một phương pháp giảng dạy hoặc một chương trình đào tạo nào đó và từ đó có thể khắc phục những hạn chế.
f. Chuẩn bị cho người học vào đời:
Đây là mục tiêu ít được quan tâm nhất trong thực tiễn giáo dục mặc dù nó không kém phần quan trọng. Thông qua các phương pháp đánh giá khác nhau, giáo viên có thể giúp người học bổ sung, phát triển những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống cũng như nghề nghiệp về sau. Ngồi các kỹ năng có tính đặc thù của nghề nghiệp, các kỹ năng xã hội (như kỹ năng giao tiếp, trình bày; kỹ năng làm việc nhóm;…) cũng rất quan trọng đối với người học về sau bỡi lẽ cho dù với loại công việc gì, con người cũng phải sống và làm việc trong một môi trường tập thể nhất định.
Như vậy cần đa dạng phương pháp đánh giá do:
ü Một phương pháp đánh giá không thể đáp ứng được tất cả các mục đích, để đáp ứng các mục đích nêu trên cần nhiều cách đánh giá khác nhau.
ü Nếu chỉ áp dụng một phương pháp đánh giá sẽ không thể phát huy tính tích cực, nhạy bén của học sinh.
ü Càng đa dạng đánh giá càng làm cho học sinh có nhiều hứng thú, phát huy tính năng động ở học sinh.
Câu 2: Trình bày khái niệm và mục đích của đánh giá thành phần và đánh giá tổng thể.
Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển, những kinh nghiệm được hình thành ở thời điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập.
v Đánh giá thành phần: Đánh giá thành phần là đánh giá thông qua việc phản hồi liên tục về tiến độ của các em học sinh liên quan đến những mục tiêu học tập, đồng thời cho học sinh tự đánh giá tiến độ của chính mình. Đánh giá thành phần diễn ra trước và trong một đơn vị bài .
v Mục đích chính của đánh giá thành phần: nhằm giúp cải thiện việc học cho học sinh, giúp các em đạt những kết quả học tập tốt và hiểu sâu, rộng hơn,đặc biệt là những em học chậm. Vì khi thực hiện đánh giá thành phần, các em học sinh luôn nhận được phản hồi liên tục về tiến độ thực hiện liên quan đến những mục tiêu học tập, giáo viên sẽ theo dõi nhu cầu của học sinh, theo dõi sự tiến bộ để tiếp tục kiểm tra khả năng lĩnh hội và tiếp tục định hướng, hỗ trợ,động viên các em thực hiện dự án đi đúng hướng và làm việc hiệu quả. Hơn nữa, khi học sinh tự đánh giá quá trình tư duy và sản phẩm mình tạo ra, những gì các em thực hiện vượt xa ý nghĩa của việc chỉ đi tìm lỗi. Đó là, như Wiggins (1990) giải thích, các em đã “nhuần nhuyễn hóa các chuẩn kiến thức mànhững sản phẩm và công việc của các em sẽ được đánh giá dựa trên đó”. Khả năng này cho phép các em suy nghĩ về chất lượng công việc và tiến trình làm việccủa mình theo những cách cụ thể và cho phép các em điều chỉnh kỹ thuật học củamình sao cho hiệu quả hơn.
v Đánh giá tổng thể: là đưa ra nhận định tổng thể về các dữ kiện đo lường được qua các kì kiểm tra trong quá trình và kết thúc quá trình trên cơ sở so sánh với những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng. Đánh giá tổng thể diễn ra vào cuối mỗi đơn vị bài học hoặc dự án nhằm cung cấp cho học sinh cũng như giáo viên thông tin về kỹ năng kiến thức mà học sinh đạt được.
v Mục đích chính của đánh giá tổng thể là nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về trình độ của các đối tượng. Từ đó có thể đưa ra được những nhận định, phương pháp chung cho các đối tượng đó nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)